QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM: TỰ HÀO 80 NĂM XÂY DỰNG, CHIẾN ĐẤU VÀ TRƯỞNG THÀNH
Quân đội nhân dân Việt Nam “Từ
Nhân dân mà ra, vì Nhân dân mà chiến đấu”, được Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch
Hồ Chí Minh tổ chức, giáo dục và rèn luyện. Trải qua 80 năm xây dựng, chiến đấu
và trưởng thành, Quân đội luôn luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và
nhân dân giao phó, xứng đáng là “Quân đội anh hùng của một dân tộc anh hùng”.
Ngày 22/12/1944, tại khu rừng
giữa tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng
(nay là xóm Nà Sang, xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng), Đội Việt
Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập gồm 34 chiến sĩ, biên chế thành
3 tiểu đội, do đồng chí Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ huy. Đây là đơn vị chủ lực
đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng và là tiền thân của Quân đội nhân dân
Việt Nam. Ngày 22/12/1944, dưới lá cờ đỏ sao vàng năm cánh, 34 cán bộ, chiến sĩ
Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã long trọng tuyên đọc Mười lời thề
danh dự.
Ngay sau khi được thành lập, với
“gậy tầm vông, súng kíp, súng trường…” Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng
quân đã mưu trí, táo bạo, bất ngờ đột nhập vào đồn Phai Khắt (25/12/1944) và đột
nhập đồn Nà Ngần (26/12/1944) tiêu diệt hai tên đồn trưởng, bắt sống toàn bộ
binh lính địch và thu tất cả vũ khí, quân trang, quân dụng; mở đầu cho truyền
thống đánh chắc thắng, đánh trận đầu của Quân đội ta.
Tháng 3/1945, Thường vụ Trung
ương Đảng họp mở rộng và ra Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng
ta”. Tháng 4/1945, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ,
quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang cả nước (Việt Nam Tuyên truyền Giải
phóng quân, Cứu Quốc quân và các tổ chức vũ trang khác...) thành Việt Nam Giải
phóng quân; đẩy mạnh tuyên truyền xung phong có vũ trang phá kho thóc của Nhật
để cứu đói cho nhân dân; xây dựng các đội tự vệ vũ trang, du kích cứu quốc;
phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa cách mạng.
Từ tháng 4/1945, cao trào kháng Nhật cứu nước, phong trào vũ trang khởi nghĩa,
khởi nghĩa từng phần đã giành thắng lợi ở nhiều nơi. Ngày 15/5/1945, sau buổi lễ
thống nhất tại Định Biên Thương, Định Hóa, Thái Nguyên, đồng chí Võ Nguyên Giáp
trở thành Tư lệnh các lực lượng vũ trang thống nhất, mang tên Việt Nam Giải
phóng quân. Trên cơ sở đánh giá thời cơ và tình hình cách mạng trong nước, dưới
sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng vũ trang cùng các tầng lớp nhân dân đồng loạt đứng
dậy tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền. Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng
8/1945, cuộc Tổng khởi nghĩa của nhân dân ta đã giành thắng lợi hoàn toàn. Cách
mạng Tháng tám năm 1945 thành công, Việt Nam Giải phóng quân được đổi tên thành
Vệ Quốc quân. Năm 1946, Vệ Quốc quân đổi tên thành Quân đội Quốc gia Việt Nam.
Năm 1950, đổi tên thành Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đi dọc theo chiều dài
của lịch sử dân tộc Việt Nam, Quân đội ta
đã luôn tỏ rõ bản lĩnh của một đội
quân cách mạng; một lực lượng chính trị đặc biệt, lực lượng chiến đấu tuyệt đối
trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân; Thể hiện được sức mạnh và khối đại đoàn
kết to lớn, từng bước trưởng thành,
cùng toàn dân vượt qua mọi khó khăn, thử thách, lập nên những chiến công hiển
hách, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp, các đại đoàn chủ lực lần lượt ra đời, phương pháp tác chiến từ
"đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung" tiến lên tác chiến hiệp đồng
binh chủng. Dân quân, du kích phát triển, thế trận chiến tranh nhân dân được
nhân rộng, do đó, Quân đội ta đã cùng toàn Đảng, toàn dân lần lượt đánh thắng
các chiến dịch lớn, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn bằng Chiến dịch Điện
Biên Phủ lịch sử. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước được tiến hành trong điều
kiện vũ khí trang bị của ta còn nhiều khó khăn, trình độ tác chiến chưa phải
hiện đại. Nhưng với tinh thần “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, “tất cả vì miền
Nam ruột thịt”, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, các binh đoàn chủ lực, các
quân, binh chủng đã ra đời, tạo ra năng lực mới trong tác chiến hiệp đồng quân,
binh chủng. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta luôn đoàn kết, gắn bó, tạo thành
sức mạnh tổng hợp, đánh thắng các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, giành
toàn thắng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 mà đỉnh cao
là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Với tinh thần tự lực tự cường, dựa trên nền tảng chính nghĩa, chúng ta đã giành
thắng lợi trong các cuộc chiến đấu, giữ vững độc lập chủ quyền của dân tộc.
Lớn lên trong cách mạng và chuyển
mình trong thời đại mới Quân đội Nhân dân Việt Nam phát triển hùng mạnh theo hướng
chính quy, tinh nhuệ và hiện đại. Để từ đó thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc;
thực hiện công tác vận động, tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước; lao động sản xuất, kết hợp quốc phòng với kinh tế
- xã hội, tham gia phòng thủ dân sự, cùng toàn dân xây dựng đất nước; thực hiện
nghĩa vụ quốc tế. Trong những năm đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên
hội nhập và phát triển; Quân đội ta đã nắm chắc và dự báo đúng tình hình liên
quan đến Quốc phòng – an ninh; chủ động tham mưu, đề xuất với Đảng và Nhà nước
hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, ra nghị quyết về Chiến lược bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đã tham mưu với Đảng và Nhà nước đề ra đối sách
phù hợp, xử lý linh hoạt, đúng đắn các tình hướng phức tạp, các vấn đề nhạy cảm
về quốc phòng – an ninh, trong quan hệ đối nội và đối ngoại; giữ vững độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và quan hệ tốt với các nước láng
giềng; bảo đảm sự ổn định chính trị - xã hội tạo ra môi trường thuận lợi cho
phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Đặc biệt trong những năm qua
công tác phòng chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn thì hình ảnh “Bộ đội cụ hồ” lại
một lần nữa tiếp tục tỏa sáng. Vượt qua bão giông, khó khăn, và cả sự sống; Bộ
đội ta, vì dân ta mà không quản hy sinh, gian khổ để mang lại cuộc sống bình
yên cho Nhân dân. Và có những sự hy sinh thầm lặng giữa thời bình của cán bộ,
chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam.
80 năm qua, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã luôn hoàn thành xuất
sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân tin tưởng giao phó. Luôn phát huy phẩm
chất của đội quân cách mạng, với truyền thống anh hùng, xứng đáng với lời của
Chủ tịch Hồ Chí Minh “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến
đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào
cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”./.